Nhóm môn đồ cùng ông Thầy của mình đi vào vườn Ghết-sê-ma-nê để cầu nguyện. Bỗng một bọn cơ binh cùng với tên chỉ điểm Giu-đa xông vào điểm nhóm. Như biết trước mọi điều sắp xảy đến cho mình, ông Thầy cất tiếng hỏi, “Các ngươi tìm ai?” Chúng đáp lại, “Tìm Giê-su người Na-xa-rét” ông Thầy bèn phán, “Chính ta đây!” Thầy vừa phán xong, cả bọn cơ binh thối lui rồi té xuống đất. Sau đó Thầy gặng hỏi lại lần nữa, xác nhận danh tánh mình và xin cho môn đồ được vô can. Ông Thầy bị trói, dẫn giải đến thầy cả thượng phẩm, một chức sắc cao cấp của dân Do Thái.
Trong lúc bị hỏi cung, ông Thầy bị đánh, bị vả vào mặt mỗi khi không trả lời theo ý người thẩm vấn. Chuyện không giải quyết được gì thêm, chúng dẫn giải ông Thầy đến trước quan tòa Phi-lát, viên quan án cao nhất xứ chuyên xử các vụ án chung thẩm. Phi-lát đã nghe nhiều lời đồn về danh ông Thầy, ông ta không cần hỏi gì thêm, chỉ xác nhận có phải người này tự xưng là ‘Vua dân Giu-đa’ không. Người đáp, “Thật như lời, ta là vua. Nầy, vì sao ta đã sanh và vì sao ta đã giáng thế: ấy là để làm chứng cho lẽ thật” (Giăng 18: 37). Dù không hiểu nghĩa của chữ ‘lẽ thật’, Phi-lát nhìn ra được người này chẳng có tội lỗi chi. Viên chánh án có ý muốn tha. Nhưng sau nhiều lần nghị án, bị áp lực của quần chúng và đám chức sắc quan lại, thay vì tha Người chúng lại tha một tên trộm cướp.
Người bị sai đánh đòn, cho đội trên đầu một cái mão bằng gai, và mặc cho một cái áo màu điều. Bọn lính làm bộ đến gần lạy Người rồi lại vả Người cốt ý làm trò cười để sỉ nhục Người trước chốn công đường. Sau đó, chúng dẫn Người ra pháp trường để đem đóng đinh Người trên cây thập tự, một lối hành hình dã man thường dành cho quân trộm cướp, nhưng trong trường hợp này lại đổ lên đầu một người vô tội. Đáng chú ý là trước lúc tắt hơi, Người không quên nguyện cầu, “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm đều gì” (Lu-ca 23: 34).
Đoạn văn vừa khái quát dựa theo nội dung của Kinh Thánh Tân ước được sứ đồ Giăng thuật lại với nhiều chi tiết bi thương, sinh động trong hai đoạn Giăng 18 và 19. Ai cũng hiểu ông Thầy vừa xưng là vua Giu-đa chính là Đức Chúa Giê-su, vị giáo chủ duy nhất có mặt trên thế gian dám tự xưng là Đấng Christ, là con Đức Chúa Trời, và thực sự Ngài là con của Đức Chúa Trời. Chẳng thế mà Giăng 3:16 đã viết, “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.” Chính Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài xuống thế gian để “nhờ Con ấy mà được cứu”.
Qua bốn sách Phúc Âm và một số khải thị được ghi chép trong các sách tiên tri phần Cựu ước, Đức Chúa Giê-su đã làm bao điều lạ, phép màu trên thế gian nầy ngay khi Ngài còn đang làm kiếp con người, mà mầu nhiệm nhất là làm cho kẻ chết sống lại. Ngài dõng dạc phán, “Ta là sự sống lại và sự sống; kẻ nào tin ta thì sẽ sống, mặc dầu đã chết rồi” (Giăng 11: 25). Sự sống lại của La-xa-rơ được Chúa thực hiện ngay nơi mộ phần khi ông ta đã chết bốn ngày.Với quyền lực được Chúa Cha ban cho, Chúa Giê-su đã làm phép lạ qua tiếng phán: “Hỡi La-xa-rơ, hãy ra! Người chết đi ra, tay buộc bằng vải liệm và mặt thì phủ khăn. Đức Chúa Giê-su phán cùng chúng rằng: Hãy mở cho người và để người đi” (Giăng 11: 43,44). Câu chuyện Chúa làm cho người anh của Ma-thê và Ma-ri sống lại chứng tỏ quyền phép vô song của Con Đức Chúa Trời và làm kinh hãi bọn Pha-ra-si và các thầy tế lễ Do Thái, một tập đoàn luôn rình rập để hại Ngài.
Trở lại núi Sọ, nơi Chúa Giê-su vừa bị đóng đinh và treo trên cây thập tự. Trong những phút cuối cùng, Ngài còn quan tâm giao mẹ phần đời của mình cho một môn đồ Ngài yêu, rồi như thể cho lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Ngài phán: Ta khát. Người ta đưa miếng bông đá thấm đầy giấm kề miệng Ngài, thấy “mọi việc đã được trọn; rồi Ngài gục đầu mà trút linh hồn” (Giăng 19:30). Quả thật Ngài đã chết và chết trên cây thánh giá.
Nhưng như đã dự ngôn trong Kinh Thánh, sau ba ngày Ngài đã sống lại. Nhiều giai thoại, nhiều chuyện kể kèm sự hiện ra của Chúa tại nhiều nơi, trong nhiều thời điểm, lúc cho các môn đồ, khi cho các tín đồ, cho kẻ tin, cho cả kẻ chưa tin. Lần hiện ra cuối trước 11 sứ đồ, Chúa còn cho phép họ được rờ vào thân Ngài bằng xương bằng thịt, nhận một miếng cá nướng từ tay môn đồ dâng cho rồi cùng ăn với họ (Lu-ca 24: 39-43). Vả, Ngài thực sự đã sống lại. Quyền lực của sự chết không thể dấy lên Ngài, Ngài đã làm cho kẻ chết sống lại, rồi chính Ngài đã sống lại (Giăng 21: 14). Ngài là ‘sự sống’ và ‘sự sống lại’. Vì quyền phép này mà Ngài là đấng duy nhất được biệt riêng ra trong hàng các giáo chủ của mọi tôn giáo khi dám xưng là Con Đức Chúa Trời, đã tự mình sống lại hoặc làm cho người khác sống lại .
Lại nữa, nếu hiểu theo nghĩa thuộc linh, Đức Chúa Giê-su xuống thế gian nhằm giải thoát con người khỏi cái nọc của tội lỗi. Sự hy sinh của Chúa Giê-su là của lễ đẹp lòng Đức Chúa Cha và là lời hứa chắc chắn cho những kẻ theo Ngài, tin Ngài về ơn cứu rỗi qua sự sống đời đời. Giăng 14: 6 đã chép lời Chúa phán, “Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha”.
Là những người Cơ Đốc Phục Lâm, chúng ta vững tin về lời hứa chắc chắn của Ngài. Chúng ta đã trải nghiệm được sự Chúa đến thế gian, đã cảm nhận được tình yêu bao la của Chúa, đã dõi theo sự đau đớn khôn cùng của Chúa trên thập tự giá, đã tin sự Chúa sống lại sau ba ngày trong mồ mả. Chưa hết, khi đã tin Chúa Giê-su chết đi và sống lại, thì cũng vậy, chúng ta còn tin Chúa sẽ trở lại để một ngày trùng phùng không xa, Chúa ở đâu con cái cũng sẽ ở đó như chính Ngài đã hứa, “Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. Khi ta đã đi, và đã sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với ta, hầu cho ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó” (Giăng14: 2, 3).
Mỗi năm nhân mùa Phục Sinh, khi nhớ lại sự thương khó của Chúa Giê-su, mỗi người trong chúng ta lại nhận ra ta luôn cần đến Chúa. Chúa đã chết cho ta, vì ta mà Chúa chết, Chúa chết để cho ta được sống. Bất giác người viết được gợi nhớ về một lời kêu gọi (sticker) được dán sau kính xe, “Jesus – Don’t leave earth without Him” (Chúa Giê-su – Xin đừng lìa thế gian mà không có Ngài). Quả thật chúng ta cần Ngài, xin hãy nhận Ngài, tin Ngài, bám víu lấy Ngài cho đến khi gặp lại Chúa ta.
Đỗ Xuân Thảo
(Mùa Phục Sinh ’08)
0 561 5 minutes read