Có một người ăn mày, mù lòa, lây lất bên con đường đất bụi bặm để xin ăn kiếm sống. Người qua lại, ai thấy tội thì bố thí cho anh ta; kẻ thì nhiếc móc anh là anh chắc đã làm điều ác nên mới bị trừng phạt phải chịu đui mù; nhưng có người khi biết anh ta đã mù từ lúc mới sinh thì thương hại anh vì cho anh là vô phước và cha mẹ anh hẳn đã ăn ở thất đức nên mới sinh ra một đứa con tật nguyền.
Đến cả môn đồ của Đức Chúa Giê-su cũng bị ảnh hưởng lối suy nghĩ của xã hội, phân vân hỏi Chúa, “Người này bị mù là vì tội của ai?”
Đức Chúa Giê-su đi ngang chỗ người ăn mày mù lòa đang xin ăn và Ngài nghe câu hỏi của các môn để mình. Chúa ngừng lại và trả lời họ, “Người này mù không phải vì tội …… của anh ta hay là vì cha mẹ anh ta đã phạm tội. ” Đức Chúa Giê-su khẳng định sự bất hạnh người ta gánh chịu trên đời không luôn nhất thiết là vì tội lỗi của cá nhân người bị nạn. Ngài không bàn về căn nguyên của sự bất hạnh của người, thay vào đó Ngài chuyển tầm nhìn của các môn đồ sang chủ đích của sự hoạn nạn này. Chúa giải thích, nhưng nhờ sự đui mù này mà nỗi bất hạnh của anh ta sẽ là cái cớ để phép lạ của tình yêu thương của Đức Chúa Trời thể hiện qua con người của anh. Và nhờ đó anh không chỉ hết mù không thôi mà anh còn nhìn thấy được ánh sáng của thiên đàng. Ngài lại tiếp, “Ta là Ánh Sáng của thế gian.” Rồi Ngài thực hiện một phép lạ để chứng minh lời mình vừa nói. Kinh Thánh ghi lại, “Ngài nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, và đem xức trên mắt người mù. Đoạn Ngài phán cùng người rằng: Hãy đi, rữa nơi ao Si-lô-ê. Vậy, người đi đến ao đó, rửa, và trở lại, thì được thấy rõ. ”
Sự kiện một người bị mù từ khi mới sinh nay lại thấy được, là một việc lạ lùng. Người ta hỏi ai đã chữa lành cho anh, thì anh ta không diễn tả được người đã chữa lành cho mình vì anh không có dịp nhìn thấy người ấy. Anh ta nói: Một người tên gọi là Giê-su đã chữa lành cho tôi. Người ta lại hỏi, vậy cái ông Giê-su ấy ở đâu, thì anh ta cũng chẳng biết. Thiên hạ xôn xao bàn tán về việc này. Vì vậy, dân chúng thấy phải mang việc này trình cho nhà chức trách, là giới lãnh đạo tôn giáo thời ấy, tức là người Pha-ri-si.
Là cấp lãnh đạo tôn giáo nên các người Pha-ri-si khi điều tra chuyện này, họ chỉ chú tâm đến sự kiện là việc này đã xảy ra trong ngày Sa-bát. Đối với họ, ngày Sa-bát không ai được phép làm một điều gì cả, nên một số họ liền kết luận, một kẻ chữa bệnh trong ngày Sa-bát là đã phạm luật pháp, như vậy kẻ ấy là một người có tội! Khi nghe họ kết luận như vậy, người ăn mày vốn xưa đui mù, không đồng ý. Vì lúc này, càng nghĩ, anh ta lại càng thấy sự việc mình nay thấy được thật là một điều quả kỳ diệu, nên anh ta nói, “Vị ấy phải là một đấng tiên tri.”
Theo văn hóa và đời sống của người Do Thái ngày xưa, tiên tri là người được Đức Chúa Trời chọn để truyền sứ điệp của Ngài đến cho dân chúng. VÌ lẽ ấy, tiên tri là những người được tôn trọng và lời họ dạy bảo là những lời đến từ Chúa. Anh mù giờ đã công nhận người chữa tật bệnh cho mình phải là một đấng tiên tri, vì chính bản thân anh ta, anh đã vâng lời người ấy khi người truyền cho anh, hãy đi rửa bùn tại ao Si-lô-ê. Anh vâng lời, và anh được sáng mắt.
Nhưng các người Pha-ri-si không thích câu trả lời của anh. Họ bèn sai bắt cha mẹ anh đến để hỏi cung. Bị tra vấn, cha mẹ của anh không dám nói thật ai đã cứu con mình vì họ thấy thái độ của nhà lãnh đạo không thích Đức Chúa Giê-su. Họ lại nói họ không biết chi cả, có gì thì hỏi con họ! Nên chính quyền lại quay sang gọi người vốn mù nay thấy được đến đặng tra vấn một lần nữa, và họ không muốn nghe anh khoe về Đức Chúa Giê-su đã chữa lành sự đui mù của anh nữa.
Người này từ thuở nào chỉ là một kẻ tật nguyền, lăn lóc bên lề đường dọ dẫm ăn xin. Nay đã được mở mắt; thay vì thấy mọi người vui mừng về sự nhiệm mầu ấy, anh thấy mọi người chỉ muốn định tội người đã cứu anh. Nên anh đã nhận thức thêm một điều nữa, là sự cố chấp và không nhân từ của những thành phần lãnh đạo tôn giáo. Họ đáng lẽ phải là những người tin, mà họ nhất định không có niềm tin. Mới đầu anh vui mừng vì thấy bản thân mình được chữa lành. Nhưng những sự chống đổi đến với niềm tin đơn giản của anh, lại đã làm cho anh càng suy nghĩ sâu xa hơn. Càng suy nghĩ, anh càng thấu hiểu được điều diệu kỳ đã đến với đời mình, và anh càng thấy người đã cứu anh, không chỉ là một con người tầm thường, bèn thật sự là người của Đức Chúa Trời. Anh hiên ngang nói lên niềm tin ấy của mình với nhà cầm quyền. Giới chức lãnh đạo lại càng bực tức với anh hơn, họ đuổi anh ra khỏi cộng đồng.
Khi Đức Chúa Giê-su nghe báo tin người ta đã đuổi anh ra, Ngài tìm anh và nói, “Con tin Con của Đức Chúa Trời không?” Anh ta trả lời và nói, “Lạy Chúa, người ấy là ai để con tin?” Đức Chúa Giê-su nói với anh, “Con đang nhìn thấy người ấy; đó là người đang nói với con.” Khi trước mù, anh không nhìn thấy được người đã chữa bệnh cho mình, nay nghe tiếng Ngài, anh nhận ra đây chính là người đã cứu mình, và anh nhìn thấy gương mặt bao dung nhân hậu của Ngài, chẳng ngập ngừng anh trả lời, “Lạy Chúa, con tin.” Rồi anh quỳ xuống thờ lạy Ngài.
Ánh sáng thiên đàng đã chiếu dọi vào lòng người ăn mày này. Niểm tin của anh đã đi từ được gặp một con người tốt, đến một người xứng đáng để nghe theo, rồi là một người phải đến từ Đức Chúa Trời, và giờ đây, đích thực là Con của Đức Chúa Trời cho anh thờ lạy!
Buổi sáng Sa-bát hôm ấy, khi người ăn mày này thức dậy, dọ dẫm đi đến gần nhà hội, để hy vọng những thiện nam tin nữ khi đến nhà nguyện có lòng từ tâm bố thi cho mình. Anh ta không bao giờ nghĩ rằng đây lại là ngày trọng đại nhất cuộc đời anh. Anh đã được tái sinh, không chỉ trong sự sáng của đôi mắt mù lòa, mà là anh tìm thấy Sự Sáng sẽ mang anh đến một sự sống đời đời qua niềm tin nơi Đức Chúa Giê-su là Con Đức Chúa Trời.
Trong năm mới, chúng tôi cầu chúc thân hữu gần xa cũng có cơ hội tìm được ánh sáng chân lý của Chúa. Cầu chúc quí vị nhìn thấy sự sáng của Đức Chúa Trời. Và nhờ đó, quí vị bước xa hơn là chỉ biết một người tên Giê-su, hay Giê-su là một nhà tiên tri, hay Ngài chỉ là một đấng được Đức Chúa Trời sai đến; mà hơn hết, quí vị biết thật rằng chính Đức Chúa Giê-su là Con Đức Chúa Trời, và Ngài là Sự Sáng, là Đạo, là Chân Lý, và Ngài đã đến thế gian để cứu chúng ta khỏi gông tù của tội lỗi, của bể khổ của thế gian này.
Chúc quí vị một năm 2015 an khang và tràn đầy ân điển của Đức Chúa Trời.
Ngọc-Liên