Hội Thánh trong thời kỳ thứ nhất được đặt tên là gì?
“Hãy viết cho thiên sứ của Hội thánh Ê—phê-sô” (Khải huyền 2: 1)
Ghi chú: Ê—phê-sô rất thích hợp để tượng trưng cho bản tính và tình trạng của hội thánh đầu tiên, khi thuộc viên của hội thánh nhận được giáo lý của Đấng Christ trong tình trạng tinh khiết, và được hưởng những phúc lợi và ơn phước của sự ban cho Đức Thánh Linh. Sứ điệp này có thể áp dụng, hay vào khoảng thời kỳ của các sứ đồ. (Xem Uriah Smith, The Prophecies of Daniel and the Revelatỉon [rev. ed.], tr. 361—368).
Sau khi khen hội thánh này về các việc lành, Chúa trách họ điều gì?
“Nhưng điều ta trách ngươi, là ngươi đã bỏ lòng kính mến ban đầu. Vậy hãy nhớ lại ngươi đã sa sút từ đâu, hãy ăn năn và làm lại những công việc ban đầu của mình” (câu 4, 5).
Ghi chú: “Lòng kính mến ban đầu” là lòng yêu mến lẽ thật, và sự ước ao rao truyền lẽ thật cho những người khác. “Công việc đầu tiên” là trái của lòng kính mến đó.
Hội thánh trong thời kỳ thứ hai được đặt tên là gì?
“Hãy viết cho thiên sứ của hội thánh Si—miệc-nơ” (Câu 8).
Ghi chú: Một số người nghĩ rằng tên Si-miệc—nơ nghĩa là “một dược” hay “hương thơm ngọt ngào.” Sứ điệp gửi cho Si-miệc-nơ có thể áp dụng cho thời kỳ khi các thánh của Đức Chúa Trời phải chịu tử vì đạo dưới thời La Mã ngoại giáo trong thế kỷ thứ hai, thứ ba, và đầu thế kỷ thứ tư.
Sự bắt bớ hội thánh kết thúc thế nào trong thời gian này?
“Ngươi chớ ngại điều mình sẽ chịu khổ . Này, ma quỷ sẽ quăng các ngươi vào ngục, hầu cho các người bị thử thách; các ngươi sẽ bị hoạn nạn trong mười ngày. Khá giữ trung tin cho đến chết, rồi ta sẽ ban cho người mũ triều thiên của sự sống” (câu 10).
Ghi chú: Sự bắt bớ đạo dữ dội nhất trong thời La Mã ngoại giáo là ở dưới triều đại của hoàng để Diocletian, từ 303-313 S.C.