Sách Sáng thế Ký của Kinh Thánh ghi lại chương trình tạo thế của Đức Chúa Trời. Ngài đã tạo dựng một thế gian tuyệt mỹ và một vũ trụ vận hành tuần hoàn. Trên địa cầu, trong vườn địa đàng, Ngài đã dựng nên cặp vợ chồng đầu tiên, A-đam và Ê-va.
Kinh Thánh nói, “Vả, A-đam và vợ, cả hai đều trần truồng, mà chẳng hổ thẹn” (Sáng thế Ký 2:25). Một lời diễn tả về tình yêu vẹn toàn. Đó là tình yêu mà đôi tình nhân không phải e-dè, không có gì phải che giấu với nhau. Họ tin tưởng vào tình yêu người kia có cho mình mà họ không ngại ngùng sự bất toàn của mình hay e sợ mình bị chê cười. Tương tự, trên phương diện thiêng liêng, tình yêu Đức Chúa Trời đối với loài người trong Vườn Ê-đên, trước khi loài người phạm tội, là một tình yêu mang cho người lòng tự tin, cho họ cảm thấy an toàn trước mặt Đức Chúa Cha của họ, và họ không cảm thấy phải sợ hãi hay hổ thẹn trước mặt Ngài.
Nhưng đáng tiếc, hình ảnh của một tình yêu tuyệt vời, bỗng tan biến. Giây phút loài người bất tuân lời Chúa và bỏ tâm lắng nghe lời dụ hoặc của ma quỉ để ăn trái cấm, rồi sa ngã, họ mất đi trong lòng họ cái tình yêu toàn vẹn không chút hồ nghi ấy. Tình yêu đối với Chúa và tình yêu họ có cho nhau chẳng còn được như những ngày đầu tiên. Kinh Thánh ghi lại, “Đoạn mắt hai người đều mở ra, biết rằng mình lõa lồ, bèn lấy lá cây và đóng khố che thân” (Sáng thế Ký 3:7).
Giây phút tội lỗi xâm nhập thế gian, mắt người mở ra và họ thấy tất cả những điểm xấu của chính họ và của nhau. Theo đó là mặc cảm tội lỗi, xấu hổ, nghi ngờ và mất tự tin. A-đam và Ê-va thấy xấu hổ với Đức Chúa Trời là Đấng tạo dựng họ vì họ đã mất đi cái lòng tin vào tình yêu vô biên và tuyệt đối của Chúa. Họ giới hạn Chúa trong sự hiểu biết hạn hẹp của mình nên họ chẳng còn dám chắc vào tình Chúa yêu họ, và về lòng nhân từ của Ngài. Họ chạy trốn. Họ sợ Chúa sẽ ghét bỏ và trừng phạt họ. Chúng ta đọc tiếp trong câu 8, “Lối chiều, nghe tiếng Giê-hô-va Đức Chúa Trời đi ngang qua vườn, A-đam và vợ ẩn mình giữa bụi cây, để tránh mặt Ngài.”
Tội lỗi đã thay đổi loài người. Tội lỗi không thay đổi Đức Chúa Trời. Ngài vẫn đi vào vườn thăm viếng hai đứa con của Ngài mỗi chiều, nhưng chúng đã chẳng còn như xưa. Nghe tiếng chân Chúa, hai đứa con của Ngài chạy trốn Ngài, núp đằng sau những bụi cây và mong Chúa đừng thấy chúng.
Nhưng Kinh Thánh kể tiếp rằng Đức Chúa Trời đã đi tìm các con Ngài. Ngài gọi tên họ, “A-đam, ngươi ở đâu? A-đam thưa rằng: Con có nghe tiếng Chúa trong vườn, bèn sợ, bởi vì con lõa lồ, nên đi ẩn mình. Đức Chúa Trời phán hỏi: Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi lõa lồ?” (Sáng thế Ký 3:9-11). Trong câu hỏi ấy của Chúa, chúng ta thấy dường như Chúa muốn hỏi, “Ta có ghét bỏ các con vì bề ngoài của các con không xứng đáng, hay ta có phàn nàn gì về các con không? Ai đã chỉ cho các con, điều gì đã làm cho các con thấy mình bất toàn?”
Trong câu nói của Đức Chúa Trời cho chúng ta thấy từ buổi ban sơ ấy, cho đến ngày nay, Đức Chúa Trời vẫn nói, ta có ghét bỏ các ngươi đâu, sao các ngươi chạy trốn ta? Ngài vẫn đi tìm các con lạc mất của Ngài. Ngài vẫn gọi tên chúng ta. Giòng dõi loài người vẫn tiếp tục “hãi sợ” Chúa, và họ vẫn tiếp tục trốn tránh Ngài. Nhưng Đức Chúa Trời, từ trong vườn địa đàng cho đến hôm nay, và mãi về sau, vẫn không hề bỏ cuộc. Ngài vẫn tìm và Ngài vẫn nói, “Ta không ghét bỏ các ngươi, ta đã sẵn lòng mang các ngươi về lại cùng ta cho dầu ta phải trả bằng một giá chuộc cao quí nhất.”
Tình yêu huyền diệu ấy của Chúa không bao giờ phai lạt. Ngài vẫn đi tìm chúng ta dầu chúng ta vấp phạm, dầu chúng ta trốn tránh Ngài. Ngài muốn mang chúng ta về lại và phục hồi lại cái niềm tự tin mà loài người đã có khi họ đối diện Ngài của thuở ban đầu. Câu Kinh Thánh bất hủ diễn tả Đức Chúa Trời và tình yêu vô lường của Ngài ghi lại trong 1 Giăng 4:16-18, “Đức Chúa Trời tức là sự yêu thương, ai ở trong sự yêu thương, là ở trong Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời ở trong người ấy.”
Khi Đức Chúa Jesus còn ở trần thế, có một lần, người ta mang lại trước mặt Ngài một người đàn bà phạm tội đáng bị ném đá cho chết. Nhưng khi Đức Chúa Jesus hỏi đám đông đang phẫn nộ ấy bằng câu hỏi, “Trong các ngươi ai là người vô tội hãy ném hòn đá trước tiên.” Cuối cùng đám đông tản đi, vì không ai dám xưng mình là vô tội để hành xử người đàn bà ấy. Chỉ còn người đàn bà đứng lại. Đức Chúa Jesus phán cùng nàng, “Ta cũng không kết tội ngươi. Hãy đi đừng phạm tội nữa” (Giăng 8:11). Đó là Chúa của chúng ta. Đó là Chúa của tình yêu thương và lòng quảng đại. Ngài đã không kết tội chúng ta. Khi được Chúa chuộc về lại, chúng ta không những sống trong tình yêu thương của Đức Chúa Trời mà chúng ta còn biểu lộ tình yêu thương giống như Ngài.
Nếu chúng ta tin vào tình yêu của Chúa, và sống trong Ngài, chúng ta sẽ được bao bọc, phủ che bằng tình yêu. Vì Đức Chúa Trời là sự yêu thương. Hít thở, ngụp lặn trong tình yêu ấy, chúng ta sẽ không còn sợ bị trừng phạt, không còn sợ bị Chúa ruồng bỏ, mà chúng ta sẽ tìm được sự tự tin, tìm lại được giá trị của mình, và ngẩng mặt, hiên ngang, vì chúng ta là con của Chúa. Vì chúng ta là những kẻ được Chúa yêu vô cùng. Và Ngài đã trả giá cứu chuộc cho chúng ta rồi!
Nguyễn Thị Ngọc Liên